(HNM) – Tài sản trí tuệ của Viện nghiên cứu, trường đại học khá dồi dào, song tại sao số lượng hàng hóa khoa học công nghệ vẫn còn hạn chế? Hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học công nghệ hiện ra sao, hội nhập với khu vực và quốc tế như thế nào? … Rất nhiều vấn đề đã được đặt tại hội nghị “Phát triển thị trường khoa học và công nghệ đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập ”, vừa được Văn phòng Chính phủ tổ chức tại Hà Nội.
Thị trường khoa học công nghệ có vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động mới được tạo ra, nâng cao năng lực ứng dụng khoa học công nghệ, tạo ra quyền lực, chất lượng cũng như sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và thay đổi mới sáng tạo đến năm 2030 (ban hành theo Quyết định số 569 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) xác định: Thúc đẩy phát triển trường khoa học công nghệ, tăng trưởng Tăng dần nguồn quan trọng tỷ lệ cung cấp công nghệ, thiết bị trong nước, đẩy mạnh hoạt động trung gian của trường khoa học công nghệ, tiến tới đồng bộ hóa với các trường hàng hóa, lao động và tài chính…
Những năm gần đây, thị trường khoa học công nghệ tại Việt Nam đã từng bước hoàn thiện và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, cả nước có hơn 800 tổ chức trung gian thị trường khoa học công nghệ, trong đó có hơn 20 sàn giao dịch tại địa phương… Tuy nhiên, cần phải thẳng thắn nhìn nhận: Thị trường khoa học công nghệ Việt Nam phát triển chậm, ở mức độ thấp, cấu trúc yếu tố thành chưa đồng bộ; is not mounting chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng với nhu cầu sản xuất, kinh doanh; not reply is request for phát triển nhanh, vững chắc của nước trong tiền cảnh hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động mạnh mẽ của cuộc chiến Cách mạng lần thứ tư.
To phát triển khoa học công nghệ một cách đồng bộ, hiệu ứng, trước khi kết thúc cùng với rà soát, loại bỏ các quy định bất cập, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ, chuyển đổi giao diện nghệ…, cơ quan chức năng và các phương pháp cần tạo ra cơ chế, giải pháp khuyến khích đầu tư vào thị trường khoa học công nghệ. Qua đó, gia tăng các tổ chức trung gian, thúc đẩy nhu cầu thay đổi công nghệ mới trong doanh nghiệp, phát triển thị trường khoa học công nghệ phù hợp với xu thế và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này.
Cùng với đó là xây dựng, triển khai các ưu đãi chính sách về tài chính như: Miễn thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động chuyển đổi mới sáng tạo (sản xuất thử nghiệm…); miễn giảm thuế cho các trung gian, môi trường trên thị trường khoa học công nghệ (triển lãm, giới thiệu sản phẩm…); miễn giảm tiền thuê đất cho các nghiên cứu cơ sở, sản xuất mới… để tạo ra các đầu tư tài chính cho các dự án khoa học công nghệ; đồng thời, tạo điều kiện cho chủ có thể tham gia thị trường khoa học công nghệ tiếp cận với các nguồn vốn vay với tỷ lệ thấp cho việc nghiên cứu chuyển giao công nghệ.
Mặt khác là hoàn thiện các công nghệ nhập khẩu chính sách cũng như các quy định về thẩm định, thông qua đó khuyến khích chuyển giao các công nghệ mới, công nghệ tiên tiến; hạn chế, loại bỏ những công nghệ lạc hậu vào Việt Nam; đồng thời tận dụng những cơ hội từ hội nhập quốc tế để tăng cường liên kết thị trường khoa học công nghệ của Việt Nam với các khu vực và thế giới. Cùng với đó là giải pháp bảo mật hài hòa lợi ích của các chủ sở hữu thể tham gia thị trường khoa học công nghệ; tạo cạnh tranh lành mạnh trên thị trường… Thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ cần đồng bộ giải pháp với tư vấn và quyết định mới!