Nhiều yếu tố làm cho nhu cầu về vốn của nền kinh tế và doanh nghiệp tăng cường.
NHU CẦU VỐN TĂNG MẠNH
Tại diễn đàn “Gỡ bỏ điểm nghẽn về chính sách và nguồn vốn để nâng cao hiệu quả thị trường bất động sản”, làm báo cáo tổ chức Công thương, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách – tiền tệ quốc gia, cho rằng câu chuyện về vốn đã trở thành vấn đề nóng của nền kinh tế và doanh nghiệp, khi yêu cầu này đang tăng cường hơn với những năm trước.
Theo ông Lực, nguyên nhân tạo cho nhu cầu về vốn tăng mạnh, đó là nền kinh tế phục hồi tốt; kênh huy động vốn từ trái phiếu doanh nghiệp bị suy giảm 4-5% do được chỉnh sửa lại chính phủ. Do đó, nhu cầu vốn vay sang ngân hàng.
Ngoài ra, tăng giá cả vật liệu, tỷ giá tăng, đồng Việt Nam mất giá so với USD 2,8%. Các phần tử này tạo ra chi phí đầu vào của doanh nghiệp tăng trưởng, đưa ra nhu cầu vốn tăng lên để bù đắp lại.
Cuối cùng, giải ngân vốn đầu tư chậm (khi kế hoạch giải ngân ngân sách rất lớn, gấp 1,5 lần so với các nhiệm kỳ trước), nên hệ thống sẽ xuất hiện, dẫn đến doanh nghiệp nợ đọng lẫn nhau … Make for the bank credit request as “hot”.
Tín dụng bất động sản vẫn tăng tích cực, từ đầu năm đến nay tăng 14%, trong đó tín dụng với phân khúc nhà ở tăng 17% và bất động sản đầu tư trên 8%.
Hiện tín dụng cho vay bất động sản sử dụng 20,6% tổng nợ nền kinh tế, với mức này vẫn còn dư địa chỉ để tiếp tục cho vay bất động sản, vì các quốc gia khác trên thế giới thông thường sử dụng 28 -30% tổng nợ của ngân hàng hệ thống.
Show nay, nhu cầu vốn là khó khăn chung và lĩnh vực bất động sản được đánh giá là tiềm ẩn nhiều rủi ro, nên các tổ chức tín dụng cũng cẩn trọng hơn trong việc giải ngân.
Tuy nhiên, cũng cần phải phân định rõ hơn về rủi ro này, tức là chia rủi ro theo phân khúc bất động sản. Trong đó, bất động sản ở, bất động sản và bất động sản văn phòng cho thuê, bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng… từ đó phân tích rủi ro từng đoạn khúc.
Tuy nhiên, ông lực cho rằng bất động sản nghỉ dưỡng, du lịch không nên trông đợi tín dụng ngân hàng, vì rủi ro hơn phân khúc khác, pháp lý lại không tốt. Hơn thế nữa, các nước khác thông thường, phân khúc này huy động vốn từ nhà đầu tư và quỹ đầu tư trong và ngoài nước để họ đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam trong tiền cảnh đường vốn từ tín dụng của họ mà chúng ta đang thắt chặt hơn so với các năm trước.
Thực tế, đầu tư nước ngoài vào bất động sản thời gian tốt, chiếm khoảng gần 3 Tỷ USD, giải ngân 1 Tỷ USD, chiếm 10% tổng số vốn FDI giải ngân.
VỐN NGÂN HÀNG NHƯ THẾ CHỌN DỰ ÁN
Từ quan điểm của doanh nghiệp, Ông Vũ Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn VNGroup, cho rằng đối với nhà đầu tư bất động sản, nguồn vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu. Vì thế, nguồn vốn vay từ ngân hàng rất quan trọng đối với doanh nghiệp, có thể coi là khung nâng cấp cho các dự án của doanh nghiệp. Đối với từng dự án nếu được cấp tín hiệu xem như là chứng chỉ bảo mật cho doanh nghiệp, tạo niềm tin cho khách hàng.
Ngoài nguồn vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn từ nhiều kênh khác, trong đó, có nguồn từ các tổ chức tài chính nước ngoài. Tuy nhiên, điều kiện huy động vốn từ các tổ chức này rất khó khăn không làm liên quan đến các thủ tục pháp luật… Cho nên, ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp bất động sản trong nguồn vốn vấn đề .
Theo phân tích của ông Nguyễn Văn Đính, Chủ tịch Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), khi dòng vốn bị tắc nghẽn sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến hoạt động bất động sản.
Thứ nhất, when the private owner when the development of the project must have 20% vốn đối ứng để bù lại các giải phóng mặt bằng. Do đó, 80% vốn còn lại từ nguồn đi vay ngân hàng, huy động từ khách hàng, ứng dụng tiền của nhà cung cấp.
Nếu dự án đang “chạy” trơn tru, thì tự động dừng lại do thiếu vốn và trở thành dự án dở dang, chủ đầu tư không có tiền chi trả các khoản cho công nhân, nhà thầu, nhà cung cấp …
Hệ thống còn lại là nguy cơ không có sản phẩm trả lại cho khách hàng, sẽ là khách hàng kiện… và cũng không thu được thêm tiền của khách hàng (vì khách hàng thanh toán theo dự án tiến độ).
Mr.Đính cho biết trong tháng 10 tới, có rất nhiều doanh nghiệp bất động sản đến hạn phải trả phiếu thanh toán. Bạn phải trả tiền ở đâu? Khi đó, họ phải đối mặt với rất nhiều hệ thống, khó khăn khó khăn.
Ngoài ra, khi dự án bị “tắc vốn” sẽ làm giảm nguồn cung cấp ra thị trường, trong khi các ngăn cản cũng tạo ra nhiều dự án “đứng hình” nhiều năm…
Theo thống kê của VARS, nguồn cung cấp từ các dự án đầu tiên vào trường ngày càng giảm. Cụ thể, năm 2018, có khoảng 200.000 sản phẩm mới, năm 2019 hơn 100.000 sản phẩm, đến năm 2020 và 2021 xuống còn 60.000 sản phẩm và trong 6 tháng đầu năm 2022 giảm xuống còn hơn 20.000 sản phẩm.…
Anh ấy cũng cho rằng, ở giai đoạn trước khi làm tiền được “bơm” dễ dàng vào thị trường bất động sản, bỏ “bong bóng” và khủng hoảng cho thị trường khi giá đất tăng phi mã, kéo theo làn sóng tăng giá của hệ thống chính trường sản phẩm, bao gồm cả căn hộ chung cư cũng tăng mạnh…
This main is a integer of the ngân hàng phải “thanh” dòng vốn vào thị trường bất động sản và đầu tiên nhóm đối tượng được hưởng ảnh hưởng là các dự án.
Nhóm thứ 2 is liên kết nghề nghiệp đến sản xuất bất động sản.
Theo thống kê có khoảng hơn 30 ngành nghề bị ảnh hưởng bởi thị trường bất động sản, chẳng hạn như: xây dựng vật liệu, máy móc, thiết bị, nội thất… Khi dự án chủ không có tiền thanh toán chuyển sang nợ đọng đầu tới các đơn vị và tạo hậu quả cho kinh tế tế chung.
Nhóm thứ 3 is customer. Vì sản phẩm bất động sản có giá trị lớn, nhiều người mua cần phải vay tiền ngân hàng. Một khi áp dụng tín hiệu, họ cũng gặp khó khăn khi không có tiền vay để mua. Đặc biệt, low entry user group, other chính sách đối tượng… lại càng hạn chế mượn nguồn. Từ đây, bất động sản vừa mã nguồn, vừa cầu mã nguồn, thị trường càng đi xuống.
Tuy nhiên, anh ấy cũng cho hiện tại ngân hàng có tín hiệu “phòng”, cũng phải hết sức cân bằng, dòng vốn nên không dễ dàng đưa vào các hoạt động mang lại lợi ích cho xã hội. Ngoài ra, các dự án hoàn thành, cần tạo điều kiện để tiếp tục hoạt động, tạo lại lợi ích cho cả doanh nghiệp, xã hội và nền kinh tế.
Còn lại ông Vũ Văn Thành đề nghị, trong ngân hàng tín dụng và trái phiếu đối với hoạt động kinh tế xã hội cố gắng cân bằng. Ngoài ra, nếu có biến động về tài chính điều hành, thì cần phải có thông báo, cảnh báo cho doanh nghiệp để có giải pháp ứng phó, chuẩn bị khác phù hợp nguồn.