Một trong bốn trọng tâm mục trong kế hoạch chuyển đổi toàn diện của EVN là công nghệ ứng dụng trong kinh doanh dịch vụ khách hàng, trong cả 4 mảng hoạt động bao gồm cung cấp đồng điện theo phương thức điện tử, giao dịch và thanh toán điện tử, thiết lập khách hàng qua tổng đài tự động và đo đếm điện năng bằng công tơ điện tử.
Từ năm 2019, EVN đã triển khai cung cấp đồng mua bán điện và các dịch vụ theo phương thức điện tử. Theo đó, toàn bộ hồ sơ giao dịch điện tử giữa EVN và khách hàng sẽ phải sử dụng hồ sơ điện tử, chữ ký điện tử. Kết quả đến năm 2021, đồng điện tử tỷ lệ đạt trên 97,9%, tăng 19,90% so với năm 2020 và vượt 7,9% so với yêu cầu đặt ra trong kế hoạch chuyển đổi.
Tập đoàn đã kết nối vào cả 2 hệ thống là nền tảng trao đổi quốc gia dữ liệu (VDXP) và nền tảng nền tảng, chia sẻ quốc gia dữ liệu (NDXP) để thực hiện tích hợp, cung cấp dịch vụ trực tuyến qua Công ty dịch vụ quốc gia, chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu về dân cư, tích hợp với các cổng thông tin của bộ, ngành và nền tảng của UBND tỉnh / thành phố (như nền tảng Thái Nguyên ID, Hue-S…).
Kết quả là toàn bộ 12/12 điện dịch vụ của EVN đã được đưa lên công ty quốc gia dịch vụ, đạt mức 4, là mức cao nhất của phủ điện tử chính. Đến cuối năm 2021, số lượng dịch vụ cung cấp thông qua công ty dịch vụ quốc gia chiếm khoảng 60% tổng số dịch vụ toàn quốc được thực hiện qua cổng.
Về thanh toán điện tử, năm 2020, EVN triển khai hóa đơn tiền điện tử ứng dụng mã QR. Năm 2021, EVN đã trực tiếp kết nối thanh toán qua ứng dụng mobile money với 3 nhà mạng lớn là VNPT, MobiFone và Viettel. Hiện nay, khách hàng của EVN có thể thanh toán mọi lúc mọi nơi, với tỷ lệ thanh toán không sử dụng tiền mặt đạt 95%.
99,67% các yêu cầu thiết bị của EVN đã được tiếp nhận thông qua các kênh tương tác trực tiếp như đường dây nóng của trung tâm thiết bị, ứng dụng trung tâm hành chính, dịch vụ cảng. Show only 0,33% of the customer request to get direct Tiếp tại các khách hàng giao dịch trong phòng của EVN.
Với điện năng đo lường, tính đến tháng 7/2022, 77,67% số lượng khách hàng của EVN đã được lắp đặt công tơ điện, trong đó khoảng 60% có dữ liệu thập phân tính năng từ xa. Công cụ điện tử giúp quá trình đếm điện năng của EVN thuận lợi hơn, giảm bỏ sót.
Nhờ các lực lượng để cải thiện các thủ tục về dịch vụ, nâng cao chất lượng cung cấp điện của EVN đã góp phần cải thiện chỉ số tiếp cận điện năng (is 1 in 10 only number of the environment of business business) of Việt Nam vị trí 27/190 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới và đứng thứ 4 ở khu vực ASEAN.